Sữa mẹ
Máy hâm sữa
Cọ bình sữa
Tiểu đường thai kì
Vỡ tử cung
Xuất tinh sớm

Nhiễm trùng papillomavirus (HPV) sinh dục có nguy cơ gây sẩy thai và ung thư cổ tử cung

Papillomavirus ở người (HPV) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục rất phổ biến, ảnh hưởng đến hàng triệu phụ nữ và nam giới trên toàn thế giới. Hầu hết các loại HPV sinh dục không gây ra triệu chứng và hầu hết tự biến mất.

Papillomavirus ở người (HPV) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục rất phổ biến, ảnh hưởng đến hàng triệu phụ nữ và nam giới trên toàn thế giới. Hầu hết các loại HPV sinh dục không gây ra triệu chứng và hầu hết tự biến mất. Nhưng một số loại HPV có thể kéo dài và gây ra mụn cóc (sùi mào gà) ở bộ phận sinh dục, có thể gây khó chịu và không hấp dẫn, nhưng không nguy hiểm. Tuy nhiên, một số loại HPV sinh dục khác có thể kéo dài và dẫn đến ung thư cổ tử cung, hậu môn, dương vật, âm đạo và âm hộ.  Nhiễm HPV và khả năng sinh sản của nữ giới Phụ nữ trẻ (20 - 35 tuổi) cũng là độ tuổi mà phụ nữ hoạt động tình dục nhiều hơn có nguy cơ nhiễm HPV tối đa, mặc dù phần lớn trong số này không có triệu chứng và tự khỏi vì hệ thống miễn dịch tốt. Trong khi mang thai, thay đổi nội tiết tố và đáp ứng miễn dịch có thể có lợi cho sự hiện diện hoặc tồn tại của nhiễm trùng HPV. Phụ nữ bị nhiễm HPV có thể gặp: Khó mang thai: HPV có thể làm giảm khả năng của phôi thai tự cấy vào thành tử cung hoặc tử cung. Nhiễm trùng HPV cũng có thể làm hỏng phôi. Tăng nguy cơ sảy thai: Có mối liên hệ giữa HPV và nguy cơ sảy thai và sinh non tự phát, nhưng những rủi ro này phụ thuộc vào loại HPV mà một người mắc phải. Các nghiên cứu cho thấy mối liên quan đáng kể giữa nhiễm trùng cổ tử cung và mất thai. Nếu một phụ nữ mang thai đã từng bị mụn cóc ở bộ phận sinh dục, người đó nên nói rõ cho bác sĩ chuyên môn để điều trị. Bác sĩ có thể loại bỏ mụn cóc trước khi sinh để giữ cho chúng khỏi chảy máu trong khi sinh. Có thể cần sinh mổ nếu mụn cóc có khả năng chảy máu nhiều. Rất hiếm khi, phụ nữ truyền mụn cóc sinh dục cho thai nhi trong quá trình sinh thường. Những điều này có thể dẫn đến các tình trạng y tế nghiêm trọng cho trẻ sơ sinh, bao gồm các vấn đề về hô hấp và khuyết tật nghiêm trọng, đôi khi gây tử vong. Nhiễm HPV và khả năng sinh sản của nam giới HPV cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở nam giới. Theo một nghiên cứu, sự hiện diện của HPV trong tinh trùng ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả mang thai, nó góp phần gây vô sinh hoặc làm tăng nguy cơ sảy thai. Virus HPV còn ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở nam giới bằng cách liên kết với đầu của tế bào tinh trùng, gây cản trở khả năng di chuyển tự do của tế bào tinh trùng. HPV ảnh hưởng đến thai kỳ như thế nào? Theo kết quả nghiên cứu của năm 2016 – 2018, HPV sẽ ảnh hưởng tới việc mang thai: •    HPV ở nam giới, phụ nữ hoặc cả hai có thể ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả mang thai bằng cách tăng nguy cơ sảy thai. •    Những cặp vợ chồng có kết quả dương tính với HPV có thể sẽ gặp khó khăn hơn trong việc mang thai và giữ thai, sử dụng thụ tinh trong tử cung (IUI) hoặc thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), so với các cặp vợ chồng âm tính với HPV. •    Khi đối tác nam bị nhiễm vi rút, nó ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ mang thai và làm tăng nguy cơ sảy thai. •    Khi đối tác nữ dương tính với HPV, có khả năng mang thai thấp hơn sáu lần so với phụ nữ âm tính với HPV sau khi sử dụng biện pháp thụ tinh trong tử cung (IUI). Biện pháp phòng ngừa lây nhiễm Có một số cách để giảm khả năng nhiễm HPV: Tiêm vắc-xin: Vắc-xin HPV có hiệu quả cao cho cả nam và nữ và có hiệu quả hơn 90% trong việc chống lại một số loại vi-rút HPV và mụn cóc sinh dục. Mặc dù nếu đã có kết quả dương tính vi rút cũng nên tiêm vắc-xin, vì một nghiên cứu cho thấy tiêm phòng vắc-xin có tỷ lệ mang thai cao hơn và tỷ lệ sảy thai thấp hơn. Đảm bảo các đối tác đã được tiêm phòng: Các đối tác tình dục có thể dễ dàng chuyển HPV cho nhau. Nếu một đối tác bị nhiễm vi rút, có khả năng đối tác kia sẽ bị nhiễm rất cao. Đảm bảo các đối tác được tiêm chủng có thể giúp ngăn ngừa lây truyền. Thực hành tình dục an toàn: Sử dụng bao cao su giúp giảm nguy cơ mắc và truyền HPV. Tuy nhiên, mặc dù bao cao su có thể ngăn chặn sự lây lan của các STI khác nhưng không hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng HPV hoàn toàn. Vì HPV có thể ảnh hưởng đến các khu vực không được bao cao su bao phủ và hình thức tình dục qua đường miệng và hậu môn. Cách an toàn nhất là: •    Kiềm chế tiếp xúc tình dục dưới bất kỳ hình thức nào với người có khả năng nhiễm HPV •    Chung thủy trong mối quan hệ tình dục một vợ một chồng lâu dài Nhận phết tế bào PAP thường xuyên: Xét nghiệm chẩn đoán PAP phết tế bào cổ tử thường xuyên giúp sàng lọc vi-rút, bao gồm các chủng có thể làm tăng nguy cơ tiền ung thư cổ tử cung và ung thư. Dấu hiệu và triệu chứng nhiễm HPV khi mang thai là gì? HPV có thể không dẫn đến bất kỳ triệu chứng cụ thể nào, điều này gây khó khăn cho việc biết mức độ nghiêm trọng hoặc tình trạng nhiễm trùng. Có hơn 100 chủng HPV khác nhau, nhưng chỉ một số có thể gây ra vấn đề. Các chủng có nguy cơ cao có thể gây ung thư cổ tử cung, trong khi các chủng có nguy cơ thấp được biết là gây ra mụn cóc (sùi mào gà) ở bộ phận sinh dục. Một số người báo cáo mụn cóc ngứa xuất hiện như: •    Những mụn phẳng •    Những vết sưng nhỏ với ngoại hình bất thường •    Những hình chiếu nhỏ như ngón tay Những mụn cóc này có thể phát triển trên da gần hoặc cổ tử cung, âm đạo, âm hộ, môi âm hộ và hậu môn hoặc xuất hiện trên đầu của dương vật nam giới. Chúng không gây đau đớn nhưng có thể làm tăng khả năng biến đổi ác tính và cũng có thể trở lại sau khi điều trị. Những rủi ro khác của HPV Một số chủng vi rút HPV, đặc biệt là HPV 16 và HPV 18 là các yếu tố nguy cơ đã biết của bệnh ung thư. Nghiên cứu cho thấy những người bị nhiễm HPV có 96% các trường hợp ung thư cổ tử cung và 93% các trường hợp ung thư hậu môn (đại tràng hoặc trực tràng). Những người bị một số chủng HPV nhất định có thể có nguy cơ mắc các loại ung thư sau đây cao hơn: •    Ung thư cổ tử cung •    Ung hậu môn •    Ung họng •    Ung thư vòm miệng •    Ung thư bộ phận sinh dục Tiêm vắc-xin là cách tốt nhất để phòng ngừa HPV. Nếu không thể tiêm vắc-xin, hoặc nếu một người đã bị nhiễm vi-rút, thực hành tình dục an toàn hoặc chọn đối tác được tiêm chủng sẽ giúp giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, HPV sẽ tự khỏi mà không cần điều trị và sẽ không gây ra bất kỳ ảnh hưởng lâu dài nào, bao gồm các vấn đề về sinh sản. Các biến chứng của HPV phụ thuộc vào chủng loại vi rút. Những người bị nhiễm HPV nên biết họ đã mắc phải chủng nào để tìm hiểu rủi ro và có biện pháp tránh các bệnh ung thư liên quan đến HPV.