Sữa mẹ
Máy hâm sữa
Cọ bình sữa
Tiểu đường thai kì
Vỡ tử cung
Xuất tinh sớm

Thụ tinh trong ống nghiệm khác với thụ thai tự nhiên như thế nào?

Thụ tinh là sự hết hợp của tinh trùng nam giới và trứng (noãn) của nữ giới. Sau khi trứng được giải phóng từ buồng trứng, nó di chuyển vào ống dẫn trứng, tại đây nếu trứng gặp tinh trùng nó sẽ được thụ tinh.

Thụ tinh là sự hết hợp của tinh trùng nam giới và trứng (noãn) của nữ giới. Sau khi trứng được giải phóng từ buồng trứng, nó di chuyển vào ống dẫn trứng, tại đây nếu trứng gặp tinh trùng nó sẽ được thụ tinh.   Trước khi được thụ tinh, tinh trùng phải đủ khỏe để bơi từ âm đạo tới cổ tử cung rồi vào ống dẫn trứng gặp trứng. Sau khi trứng được thụ tinh (gọi là phôi), nó dần di chuyển về tử cung rồi bám vào thành tử cung và bắt đầu phát triển thành em bé, điều này được gọi là thụ thai tự nhiên.    Ngay khi thụ tinh, gen và giới tính của bé được quyết định. Nếu tinh trùng có nhiễm sắc thể Y, em bé của bạn sẽ là con trai. Nếu nó có nhiễm sắc thể X, em bé sẽ là con gái.   Tuy nhiên, nếu việc thụ thai tự nhiên được xác nhận không thể xảy ra ở các cặp nam nữ do những yếu tố như tắc ống dẫn trứng ở nữ, tinh trùng bất thường hoặc không có tinh trùng ở nam, hoặc do một số yếu tố khác không rõ nguyên nhân. Lúc này, lựa chọn thụ tinh trong ống nghiệm là một giải pháp mang đến hy vọng có con cho các cặp đôi. Vậy thụ tinh trong ống nghiệm là thế nào? Thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization) viết tắt là IVF, là một thủ tục kết hợp của trứng và tinh trùng diễn ra bên ngoài cơ thể người phụ nữ. Trứng trưởng thành được thu thập từ buồng trứng và được thụ tinh bởi tinh trùng trong phòng thí nghiệm, sau đó trứng được thụ tinh (phôi) sẽ được chuyển đến tử cung. Hoàn Tất quá trình thụ tinh IVF thuờng mất khoảng ba tuần, đôi khi các bước này được chia thành các phần khác nhau và quá trình có thể mất nhiều thời gian hơn nữa.   Trước khi làm thủ thuật này phụ nữ sẽ được cho dùng thuốc sinh sản để kích thích một số trứng trưởng thành trong buồng trứng cùng một lúc.    Ngoài IVF ra, một thủ thuật khác cũng được áp dụng, đó là đặt tinh trùng trực tiếp vào tử cung của phụ nữ tại thời điểm rụng trứng. Các bước tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) 1. Điều chỉnh chu kỳ kinh nguyện tự nhiên Người phụ nữ sẽ được tiêm hoặc uống loại thuốc trong khoảng 2 tuần, để điều tiết chu kỳ kinh nguyệt tự nhiên.  2. Kích thích buồng trứng Trước khi làm thủ thuật này, phụ nữ sẽ được cho dùng thuốc sinh sản để kích thích một số trứng trưởng thành trong buồng trứng cùng một lúc, buồng trứng sẽ sản xuất nhiều trứng hơn bình thường. 3. Lấy trứng Trứng trưởng thành được lấy ra khỏi buồng trứng của người phụ nữ bằng cách sử dụng một thủ thuật tiểu phẫu gọi chọc hút nang trứng. Bác sĩ sẽ dùng một cây kim rất mỏng đưa qua âm đạo để vào buồng trứng, kim được kết nối với một thiết bị hút để hút trứng ra với sự trợ giúp của máy siêu âm. Ngoài ra, thủ thuật khác được gọi là nội soi, một ống nhỏ mỏng với ống kính quan sát được đưa vào qua vết mổ ở rốn.  4. Tinh trùng và thụ tinh Những trứng đã được thu thập được đặt cùng với tinh trùng và được giữ trong buồng kiểm soát môi trường.  5. Chuyển phôi Trứng được theo dõi trong vài ngày, khi thấy sự thụ tinh đã xảy ra và các tế bào đã bắt đầu phân chia, chúng sẽ được đưa trở lại tử cung của người phụ nữ. Việc chuyển phôi vào tử cung được thực hiện bằng cách sử dụng một ống mỏng, hoặc ống thông đưa qua âm đạo. Khi phôi dính vào niêm mạc tử cung, lúc này phôi có thể bắt đầu phát triển khỏe mạnh.   Những rủi ro khi thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) Sinh nhiều con: Khả năng sinh nhiều con nếu có nhiều phôi được đưa vào tử cung. Khả năng mang thai nhiều con, sẽ khiến chuyển dạ sớm và thai nhi sẽ nhẹ cân hơn là khi mang thai một thai nhi.    Sinh non và nhẹ cân: Nhiều nghiên cứu cho thấy IVF với khả năng sinh non và nhẹ cân cao. Hội chứng quá kích buồng trứng: Do sử dụng tiêm các loại thuốc sinh sản để kích thích buồng trứng, do đó có nguy cơ gây ra hội chứng quá kích buồng trứng khiến phụ nữ bị đau và sưng. Những triệu chứng thường kèm theo như đau bụng nhẹ, đầy hơi, buồn nôn và tiêu chảy. Sảy thai: Tỷ lệ sảy thai khi dùng phương pháp IVF tương tự như thụ thai bằng phương pháp tự nhiên, khoảng 15% ~ 25%, tỷ lệ này cũng sẽ tăng tùy thuộc theo lứa tuổi của người mẹ. Biến chứng khi dùng thủ thuật lấy trứng: Khi sử dụng kim hút để lấy trứng có thể gây chảy máu, gây nhiễm trùng, làm tổn thương ruột, bàng quang hoặc mạch máu. Khi sử dụng thuốc an thần và gây mê toàn thân cũng có thể để lại một số rủi ro. Mang thai ngoài tử cung: Có khoảng 2% ~ 5% phụ nữ sử dụng IVF sẽ có thai ngoài tử cung. Dị tật bẩm sinh: Cho dù thụ thai tự nhiên hay IVF, thì độ tuổi của người mẹ là yếu tố chính để lại nguy cơ dị tật bẩm sinh. Hiện nay, vẫn nhiều nghiên cứu hơn để xác định thụ thai bằng IVF thì nguy tăng nguy cơ bị dị tật bẩm sinh có cao hay không. Ung thư: Mặc dù, một số nghiên cứu ban đầu cho thấy khối u buồng trứng có thể có mối liên hệ với một số loại thuốc được sử dụng để kích thích trứng phát triển. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn chưa đưa ra những chuẩn đoán cụ thể. Hầu hết không có nguy cơ tăng ung thư vú, nội mạc tử cung, cổ tử cung hoặc buồng trứng sau dùng phương pháp IVF . Tài chính: Sử dụng IVF có thể khiến bạn bị cạn kiệt về tài chính, thể chất và cảm xúc. Do đó, bạn cần nhờ sự hỗ trợ từ nhân viên tư vấn, từ gia đình và bạn bè để có thể giúp bạn và bạn đời của bạn vượt qua những thăng trầm khi sử dụng giải pháp để có con.  Khi các phương pháp điều trị vô sinh không có hiệu quả, thì việc sử dụng thụ tinh trong ống thí nghiệm In vitro fertilization ( IVF) lại giúp mang thai. Tại Hoa Kỳ có khoảng 1% trẻ được sinh ra mỗi năm nhờ thụ tinh IVF. Ngày 25.7.1978, em đầu tiên tên là Louise Brown được sinh ra băng phương pháp thụ tinh IVF, người ta còn biết đến Louise Brown với tên khác là “em bé trong ống nghiệm”. Đây cũng là phương pháp thụ tinh IVF đầu tiên để lại nhiều hy vọng có con cho các cặp vợ chồng. Sau những cống hiến của mình - Robert Edwards cha đẻ của thụ tinh ống nghiệm, ông đã được nhận giải nobel y học vào ngày 4.10.2010.   Robert Edwards (phải) cha đẻ của thụ tinh ống nghiệm và Louise Brown (trái) người được sinh ra đầu tiên bằng IVF Một nghiên cứu đã gợi ý rằng, những phụ nữ có đủ lượng vitamin D có khả năng mang thai IVF cao hơn so với những người có lượng vitamin thấp. Trên thực tế, nhiều người đã không biết rằng việc bổ sung vitamin D có thể ảnh hưởng đến cơ hội mang thai, cho dù là dùng phương pháp thụ thai tự nhiên hoặc dùng IVF.     Robert Edwards cùng những đứa trẻ được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh IVF