Sữa mẹ
Máy hâm sữa
Cọ bình sữa
Tiểu đường thai kì
Vỡ tử cung
Xuất tinh sớm

Viêm đường mật ở trẻ nhỏ? Nếu không phẫu thuật có thể sẽ dẫn tới tử vong!

Viêm đường mật là một bệnh gan hiếm gặp xảy ra ở trẻ sơ sinh, thường được phát hiện ngay sau khi bé chào đời. Rối loạn này ảnh hưởng đến các ống trong gan gọi là ống mật. Nếu không được điều trị bằng phẫu thuật, nó có thể gây tử vong.

Viêm đường mật là một bệnh gan hiếm gặp xảy ra ở trẻ sơ sinh, thường được phát hiện ngay sau khi bé chào đời. Rối loạn này ảnh hưởng đến các ống trong gan gọi là ống mật. Nếu không được điều trị bằng phẫu thuật, nó có thể gây tử vong. Mật là một chất lỏng được tạo ra bởi gan. Thông thường các ống mật lấy mật đến ruột non. Mật giúp tiêu hóa và cũng mang chất thải. Khi một đứa trẻ bị viêm đường mật, các ống mật trong gan bị chặn. Mật sẽ tích tụ lưu lại trong gan và gây hại cho gan, từ đó nhiều chức năng cơ thể quan trọng cũng bị ảnh hưởng.   Có 2 loại viêm đường mật Đây là hai loại viêm đường mật: - Viêm đường mật sơ sinh: Đây là loại phổ biến nhất. Nó xuất hiện sau khi sinh, thường nhất là khi em bé khoảng 2 đến 4 tuần tuổi. - Viêm đường mật thai nhi: Trường hợp này ít phổ biến hơn. Nó xuất hiện khi em bé vẫn đang phát triển trong bụng mẹ. Viêm đường mật phải được điều trị bằng phẫu thuật. Đây là nguyên nhân phổ biến nhất của ghép gan ở trẻ em ở Hoa Kỳ. Nó phổ biến hơn ở em bé gái so với em bé trai.   Nguyên nhân Các chuyên gia vẫn chưa tìm được nguyên nhân chính xác gây ra viêm đường mật. Nó không được truyền từ cha mẹ sang con cái, vì vậy nó không phải là một bệnh di truyền. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu có đưa ra một số nguyên nhân có thể dẫn tới căn bệnh này như: - Nhiễm virus hoặc vi khuẩn - Vấn đề của hệ thống miễn dịch - Một sự thay đổi vĩnh viễn trong cấu trúc gen, được gọi là đột biến gen - Tiếp xúc với các chất độc hại - Các yếu tố rủi ro Trẻ sinh non có nguy cơ bị viêm đường mật cao hơn so với trẻ sinh đủ tháng. Trẻ sơ sinh gốc Á và người Mỹ gốc Phi cũng có nguy cơ mắc chứng rối loạn cao hơn.   Triệu chứng Trẻ sơ sinh bị viêm đường mật thường có vẻ khỏe mạnh khi sinh. Thông thường, các triệu chứng bắt đầu xảy ra trong khoảng từ 2 tuần đến 2 tháng tuổi. Các triệu chứng có thể bao gồm: - Da và mắt màu vàng (vàng da) - Nước tiểu đậm - Phân màu sáng - Bụng sưng  - Giảm cân Các triệu chứng của viêm đường mật có thể trông giống như các tình trạng gan hoặc các vấn đề sức khỏe khác chính vì thế bố mẹ nên đưa con tới gặp bác sĩ để có chuẩn đoán chính xác. Để xác định bé có bị mắc bệnh này không, các bác sĩ có thể sẽ tiến hành các xét nghiệm như: Xét nghiệm máu - Xét nghiệm men gan: Nồng độ men gan cao có thể cảnh báo dấu hiệu của tổn thương gan. Nguyên nhân có thể do enzyme rò rỉ từ gan vào máu khi gan bị tổn thương. - Xét nghiệm Bilirubin: Bilirubin được tạo ra bởi gan và được gửi vào mật. Nồng độ bilirubin cao thường có nghĩa là dòng mật bị chặn. Hoặc nó có thể có nghĩa là có một khiếm khuyết trong việc xử lý mật của gan. - Xét nghiệm Albumin và lượng protein: Mức protein dưới mức bình thường do gan tạo ra có liên quan đến nhiều rối loạn gan lâu dài (mãn tính). - Xét nghiệm đông máu: Xét nghiệm này bao gồm PT (thời gian Prothrombin) và PTT (thời gian thromboplastin một phần). Các xét nghiệm này kiểm tra mất bao lâu để máu đóng cục. Sự đông máu đòi hỏi vitamin K và protein do gan tạo ra. Tổn thương tế bào gan và dòng mật bị chặn có thể gây ra vấn đề đông máu bình thường. - Xét nghiệm virus: bao gồm viêm gan và HIV - Xét nghiệm sự trao đổi máu: Xét nghiệm này kiểm tra nhiễm trùng vi khuẩn trong máu có thể ảnh hưởng đến gan.   Xét nghiệm hình ảnh - Siêu âm ổ bụng: Một xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh sử dụng sóng âm thanh tần số cao và máy tính để tạo ra hình ảnh của các mạch máu, mô và cơ quan. Siêu âm được sử dụng để xem gan, túi mật và ống mật. - HIDA (quét gan mật): Một đồng vị phóng xạ ở mức độ thấp được tiêm vào tĩnh mạch của con bạn. Gan và ruột được quét bằng máy y học hạt nhân. Nếu đồng vị đi qua gan vào ruột, các ống mật sẽ mở và trẻ không bị viêm đường mật.   Các xét nghiệm khác: - Sinh thiết gan: Một mẫu mô được lấy từ gan của con bạn và kiểm tra xem có vấn đề gì không. Sinh thiết có thể cho biết nếu có khả năng viêm đường mật. Nó cũng có thể loại trừ các vấn đề về gan khác. - Phẫu thuật chẩn đoán: thông qua phẫu thuật bác sĩ có thể nhìn thấy gan và ống mật. Nếu bé bị chẩn đoán là viêm đường mật, bác sĩ có thể quyết định tiến hành điều trị bằng phẫu thuật cùng một lúc.   Điều trị Nếu không phẫu thuật, viêm đường mật có thể gây tử vong. Có hai loại phẫu thuật chính: Phẫu thuật Kasai Phẫu thuật này kết nối dẫn lưu mật từ gan trực tiếp đến đường ruột. Nó đi xung quanh (bỏ qua) các ống mật bị chặn. Phẫu thuật này có thể cho phép một đứa trẻ phát triển và có sức khỏe khá tốt trong một vài năm. Tại một số điểm, mật sẽ sao lưu vào gan. Điều này gây tổn thương gan. Một thời gian sau đó có thể phải tiến hành ghép gan. Ghép gan Ghép gan sẽ loại bỏ gan bị tổn thương và thay thế nó bằng gan mới từ người hiến. Gan mới có thể là - Toàn bộ gan, nhận được từ một người hiến tặng - Một phần của gan, nhận được từ một người hiến tặng - Một phần của gan, nhận được từ người thân hoặc người khác có loại mô phù hợp với loại mô của trẻ Sau khi ghép gan, gan mới bắt đầu hoạt động và sức khỏe của trẻ thường nhanh chóng bình phục sau đó. Sau khi cấy ghép, một đứa trẻ phải dùng thuốc để giúp cơ thể hệ thống miễn dịch của cơ thể không bị tấn công, hoặc từ chối gan mới. Những loại thuốc này được gọi là thuốc chống phản xạ. Từ chối là một phần của hệ thống miễn dịch chống lại virus, khối u và các chất lạ khác. Thuốc chống phản xạ làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Ngoài ra sau khi phẫu thuật bé cần được theo dõi sức khỏe thường xuyên.   Chăm sóc trẻ bị viêm đường mật Trước khi con bạn phẫu thuật, dinh dưỡng có thể là một vấn đề. Với viêm đường mật, không đủ mật đến ruột để giúp tiêu hóa chất béo trong chế độ ăn uống. Tổn thương gan có thể gây thiếu protein và thiếu vitamin. Trẻ mắc bệnh gan cần nhiều calo hơn một đứa trẻ bình thường vì chúng có sự trao đổi chất nhanh hơn. Nếu con bị viêm đường mật, bố mẹ nên gặp bác sĩ dinh dưỡng nhi khoa. Chuyên gia dinh dưỡng có thể tư vấn cho bố mẹ về chế độ ăn uống của con bạn. Một kế hoạch dinh dưỡng có thể bao gồm một chế độ ăn uống cân bằng và bổ sung vitamin. Một số trẻ mắc bệnh thường rất yếu và không thể ăn uống bình thường. Trong trường hợp này bố mẹ nên cho con ăn chất lỏng có hàm lượng calo cao. Những thức ăn này được cho qua một ống gọi là NG, hoặc ống thông mũi dạ dày. Ống được dẫn vào mũi con của bạn, xuống thực quản và vào dạ dày. Một chất lỏng có hàm lượng calo cao có thể được cung cấp qua ống để thêm vào chế độ ăn của trẻ nếu con bạn chỉ có thể ăn một lượng nhỏ thức ăn. Hoặc nó có thể thay thế bữa ăn nếu bé không thể ăn một cách bình thường. Sau phẫu thuật, quá trình tiêu hóa của con bạn có thể trở lại bình thường. Hoặc bạn vẫn có thể cần cho con ăn thêm vitamin hoặc điều chỉnh chế độ ăn cho con theo chỉ dẫn của bác sĩ.   Vậy với căn bệnh này, khi nào bố mẹ cần phải làm gì? Có rất nhiều yếu tố quyết định việc bố mẹ cần làm gì, bao gồm: - Mức độ thiệt hại của các ống dẫn mật - Độ tuổi của trẻ có thể tiến hành phẫu thuật Kasai hoặc ghép gan - Mức độ tổn thương của gan sức khỏe tổng thể của con   Sau khi ghép gan, sức khỏe của con bạn sẽ được cải thiện. Nhưng con bạn phải tuân theo một chế độ y tế nghiêm ngặt. Điều này bao gồm: - Các loại thuốc để ngăn chặn hệ thống miễn dịch cơ thể, hệ thống miễn dịch tấn công hoặc từ chối, gan mới. Chúng được gọi là thuốc chống phản xạ. Chúng làm suy yếu hệ thống miễn dịch. - Thuốc để ngăn ngừa nhiễm trùng, được gọi là kháng sinh - Thường xuyên trao đổi với bác sĩ về tình hình sức khỏe của bé   Dấu hiệu nào cần cho bé đi gặp bác sĩ ngay lập tức: - Da và mắt màu vàng (vàng da) - Nước tiểu rất sẫm màu, gần như màu nâu - Màu phân nhạt, gần như trắng - Sụt cân   Những điểm chính bố mẹ cần nhớ - Viêm đường mật là một rối loạn gan hiếm gặp xảy ra ở trẻ sơ sinh. - Các chuyên gia chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây bệnh. - Nếu không được điều trị bằng phẫu thuật, viêm đường mật có thể gây tử vong. - Tại một số thời điểm, con bạn có thể cần ghép gan. - Sau khi ghép gan, con bạn phải dùng thuốc để ngăn cơ thể tấn công, hoặc từ chối gan mới.